Lời Kể Từ Bà Ngoại
Từ nhỏ tôi vốn khác người, không thích nghe kể truyện cổ tích mà chỉ thích chuyện ma. Đây là một câu chuyện đời xưa mà tôi được nghe bà ngoại kể lại. Cũng giống như những lần khác, bà ngoại tôi luôn khẳng định chuyện này có thật. Nhân một lần về quê gần đây, tôi lại cố đi hỏi những người bà con gần nhà. Và thật bất ngờ khi bọn họ cùng xác nhận chuyện mà bà ngoại tôi kể là sự thật. Tuy có nhiều dị bản khác nhau, nhưng nhân vật chính đều cùng là một bà già. Bà ta già lắm rồi, sống lâu đến nỗi đã biến thành yêu tinh. Một con yêu tinh ăn thịt người.
Chiến tranh Việt Nam, mà lịch sử nước ta gọi là Kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1955 – 1975) là giai đoạn thứ hai và giai đoạn khốc liệt nhất của chiến tranh Đông Dương (1945 – 1979). Hai bên cuộc chiến bao gồm Việt Nam Cộng hoà ở miền nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở miền bắc. Tuy nhiên, tham chiến trực tiếp còn có các đồng minh khác của Việt Nam Cộng hoà như Mỹ, Úc, New Zealand, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines. Ngược lại, miền bắc nhận sự viện trợ mạnh mẽ của các nước khối Xã hội Chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc.
Sự kiện tết Mậu Thân năm 1968, quân giải phóng tung ra trận Tổng tiến công và nổi dậy khắp miền nam, đánh vào hầu hết thành phố, thị xã và căn cứ quân sự của Mỹ. Sau đó là chiến dịch xuân hè 1972, quân giải phóng liên tục chọc thủng ba tuyến phòng ngự quan trọng Trị Thiên, bắc Tây Nguyên và miền đông nam bộ. Hiệp định Paris 1973 là hiệp định chấm dứt chiến tranh với sự ra đi của quân viễn chinh Hoa Kỳ, kết cục chiến tranh Việt Nam đã rõ ràng.
Trong thời kỳ đó, gia đình bên ngoại của tôi sống ở vùng Nhựt Ninh, tỉnh Long An. Vốn từ đời ông cố ông xơ cả dòng họ đều làm ruộng, ông ngoại tôi lại là một tài công, lái xe ở tận vùng Bà Rịa, Vũng Tàu. Nhưng do tính hay lo xa và cái khoản dũng khí không được nhiều, ông thường hay chuyển đổi chỗ ở và nghề nghiệp. Phần lớn lý do là muốn tránh xa vùng chiến trận.
Thập niên bảy mươi, chiến trường miền nam đang tới hồi ác liệt nhất. Ông ngoại tôi bỏ thành thị, dắt díu cả nhà chạy tuốt xuống miệt Sóc Trăng. Ở đây ông hành nghề đi ghe chở hàng với mấy cậu. Bà ngoại, cùng mẹ tôi và các dì thì dựng nhà ở Bờ Xán cách Ngã Năm chừng chục cây số. Lại tiếp tục hay tin Sài Gòn đã giải phóng, ông ngoại tôi đuổi cả nhà chạy tới vùng Cạnh Đền. Vốn chỉ là người dân lương thiện, nhưng ông ngoại tôi lại có lá gan bé xíu. Nghe người ta đồn quân giải phóng vào rồi sẽ bắt người dân đi đến vùng kinh tế mới hết trơn.
“Đi kinh tế mới thì toàn đến vùng đồng khô cỏ cháy, cả lá chuối khô cũng không có mà ăn.” Chính vì nghe đồn ác nghiệt như vậy, ông ngoại tôi mới có ý định “đón đầu dự án”, chạy vào vùng hẻo lánh mong tìm trước một khu đất tốt để mà khai khẩn vỡ hoang.
Mẹ tôi và các dì thì khóc tấm tức như mưa, trước giờ họ chỉ sống ở thành thị, nào có biết gì về nghề nông, nghề ruộng. Thế nhưng ông ngoại tôi dù có nhát thì tính tình vẫn vô cùng gia trưởng, một lời ông đã quyết thì cả nhà đều phải dỡ lá dọn đi.
Gả con về xứ Cạnh Đền,
Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lềnh tựa bánh canh.
Nghe câu hát đó vẫn còn chưa đáng sợ bằng trải nghiệm thực tế. Mẹ tôi kể vùng này tựa hồ như rừng, như nơi tận cùng của thế giới. “Đất rộng người thưa, ma quỷ hoành hành. Mỗi nhà cách nhau một tiếng hú.” Mà cái tiếng hú giữa rừng nước mênh mông thì phải vang xa đến biết chừng nào. Đơn vị đo khoảng cách độc đáo như thế chắc chẳng nơi nào có được.
Ấn tượng thứ hai là xứ này dường như không phải rừng hoang núi sâu chưa có người khai phá. Hàng trăm mẫu đất đã bị cày xới lên liếp thẳng hàng dài thăm thẳm suốt cả cây số. Không sức người hay máy móc nào vào thời kỳ đó lại có khả năng tạo nên công trình kỳ vĩ đến vậy. Nghe kể về chuyện này, tự dưng tôi lại nhớ đến mấy những hình tròn bí ẩn đã xuất hiện tại Anh, Mỹ hay châu Phi… Liệu đó có phải là những dấu vết bí ẩn mà UFO đã để lại ở Việt Nam?
Câu trả lời mới thật làm tôi chưng hửng. Toàn bộ người dân ở Cạnh Đền đều nhất mực tin rằng đây là dấu vết do quân đội của vua Gia Long để lại. Nghe kể ngày xưa vị vua này đã tháo chạy đến đây, địa danh Cạnh Đền cũng chỉ vùng đất ở cạnh đền của vua mà có. Cậu tôi kể thêm vào là sau giải phóng có người đã đào được vàng ở gần chỗ nhà gia đình ngoại tôi sống. Đó một chiếc mũ miện công chúa gì đó, đã được bán đi ngay. Nói tóm lại là vô phương truy cứu. Nếu thật có việc này, chắc hẳn Cạnh Đền đã được xếp vào di tích cấp quốc gia mất rồi.
Nhưng trong phạm vi câu chuyện, tôi xin không bàn cãi về cái “thật” của những lời đồn kể. Nếu có thể tìm ra chân tướng của toàn bộ mọi thứ, thì còn gì là sự quyến rũ bí ẩn của những câu chuyện ma.
Nói tóm lại, Cạnh Đền trong câu chuyện của tôi là một vùng rừng thiêng nước độc, ma quỷ hoành hành. Mà nói đến cái kiểu lộng hành của quỷ thì cả dòng cả họ tôi, ai cũng đều có thể kể được vài dăm ba chuyện mà tự mình đã trải nghiệm.
Cậu của tôi thời ấy còn trẻ cũng là một tay lực điền nổi tiếng gan dạ nhất xóm. Sống ở Cạnh Đền người ta năm giờ đã về nhà, sáu giờ đã rút vào mùng chuẩn bị ngủ, ấy vậy mà ổng vẫn còn hay lê la ở nhà hàng xóm nhậu. Nói hàng xóm chứ thật ra hai nhà cũng cách nhau vài cây số. Có chuyện gì nhà này hét khản giọng thì nhà kia mới nghe được phong phanh.
Say xỉn trở về nhà, cậu tôi nhìn thấy từ đằng xa có một bóng người đi bên bờ ruộng. Sống cùng một vùng không nhiều người nên ai nấy đều quen biết với nhau hết. Cậu tôi dự định đến gần chào một tiếng, nhưng người kia cứ đi đằng trước mãi, có gọi cũng không dừng. Chẳng biết có phải do rượu hay tính tò mò mà cậu tôi kiên quyết đuổi theo cho bằng được.
Từ rảo bước nhanh cho đến chạy vội, ông vẫn không đuổi kịp người bước đi khoan thai trước mặt. Tức mình, ông lấy dép chọi người ta một cái. Người đi phía trước dừng lại, ông cậu tôi hả hê chạy lại gần để xem đó là ai.
Kết quả là ngày hôm sau, nhà tôi tìm thấy ông bị giấu trên đọt cây, miệng bị nhét đầy đất sét không thể nói chuyện được. Đến khi đưa ông xuống đất, moi hết đất sét trong miệng ra, ông vẫn bần thần chưa tỉnh. Mấy ngày tiếp nữa mới có thể dần dần nói chuyện được, nhưng có hỏi thế nào ông cũng chỉ nhớ được đến khúc lấy dép chọi người ta…
Câu chuyện của mẹ tôi chỉ là vào một hôm trời mưa lớn. Bà ngoại cùng các cậu vẫn còn ngoại ruộng chưa về, trông nhà chỉ có mẹ và dì tôi. Lúc ấy chỉ vào khoảng giữa trưa, tuy mây mù che đen nhưng vẫn có thể tính là trời sáng. Mẹ tôi thấy ngoài cửa sổ có người đứng thì hảo tâm mở cửa cho người ta vào nhà trú mưa.
Nào ngờ ngoài sân bốn bề trống hoác không còn lại bất kỳ người nào. Chỉ trong một tích tắc như vậy, muốn chạy khỏi sân trốn vào lùm cây cũng là việc không dễ dàng gì. E lại là một trò quấy phá nào của bọn yêu quái.
Thêm một câu chuyện khác do dì tôi kể lại. Số là hôm ấy có đám giỗ nên ông ngoại tôi mần cả một con heo để dành đãi bà con chòm xóm. Thịt heo thì đã làm được nhiều món, đầu heo để nấu một nồi cháo to đùng. Nào ngờ dì tôi chỉ quay lưng đi xắt hành một chút, lúc quay lại nồi cháo đã bốc mùi ôi thiu khủng khiếp. Lửa vẫn còn trong lò, cháo vẫn sôi ùng ục nhưng cứ như thể là đã bị bỏ đó suốt ba bốn ngày trời.
Sống ở Cạnh Đền chưa được hai năm thì nhà ngoại tôi lại bỏ xứ mà đi lần nữa. Tôi thì thấy cả nhà bên ngoại sống được cùng ma quỷ đến gần hai năm thì đã tỏ ra khâm phục vô cùng lắm rồi. Nhưng sự thật là mấy trò quấy phá nhỏ mọn như kể trên vẫn chưa thấm gì so với chuyện tôi sắp kể đây. Chính vì bà yêu tinh ăn thịt người mà ông ngoại tôi quyết tâm trở về Long An. Thà bị bắt đi kinh tế mới còn hơn bị quỷ ăn thịt.
Thật sự là không phải tự nhiên mà ông ngoại tôi lại chọn xứ Cạnh Đền mà tới. bởi vì họ hàng bên ngoại tôi có ông cậu mười đã đến đây sống từ trước. Nhớ lại nhà ông cậu có mấy người con đều là tham gia tập kết, ông ngoại tôi tin tưởng về đây sống sẽ vô cùng an toàn. Ông cậu mười có ruộng đất mênh mông, nhà lại thưa vắng nên khi ông ngoại, bà ngoại tôi đến sống thì mừng lắm, chia ngay mấy mẫu đất cho làm.
Người dưới quê tính tình hiền hậu chất phát, lại có thói quen sống quần cư. Cả một khu vực rộng toàn là bà con trong dòng họ. Tuy đã trải qua mấy đời, quan hệ thưa dần nhưng vẫn nhận ra bà con.
Lúc bấy giờ cách nhà ngoại tôi mấy “tiếng hét” là gia đình của bà cô bảy. Bà cô này chỉ cách bà ngoại tôi mấy tuổi, lúc đó đó chỉ hơn ba mươi, tính ra như chị em nhưng vai vế lại lệch nhau rất nhiều. Ông dượng bảy thì lớn hơn ông ngoại tôi một xíu. Sống cùng gia đình bọn họ con có bà nội chồng.
Bà ngoại tôi kể lại bà nội chồng này lớn tuổi lắm rồi. Đầu tóc bạc phơ chỉ còn lưa thưa vài sợi, cả người còng gập khòm lại, dáng vẻ chỉ như một đứa bé con. Làn da nhăn nheo lại bị bệnh ngoài da như nổi mốc. Bà ta còn bị bệnh đãng trí của người già, suốt ngày cứ đòi ăn cơm.
Có hôm bà cô bảy vừa mới dọn mâm cơm xuống, đang ngồi rửa chén thì giật mình vì phát hiện ra một bóng đen đứng sau lưng mình. Bà cô bảy vừa quay mặt lại thì thấy bà nội chồng đứng lù lù ở đó.
– Cơm đâu? Mau dọn cơm cho ta ăn.
– Nội ơi, vừa mới ăn cơm xong mà. Con còn đang rửa chén đây. – Bà cô bảy phân trần.
– Ta chưa ăn, mau dọn cơm. Muốn bỏ ta chết đói sao?
Bà cô bảy thân là dâu con nên đâu dám cãi lại, rồi sợ bà con láng giềng chê trách mình không hiếu thuận với bậc trưởng bối. Bà cô bảy lại dọn cơm, tự nhủ bà nội đã ăn rồi, còn bụng dạ nào mà ăn tiếp được nữa. Thế nhưng bà ta lại tiếp tục ăn ngon lành. Cứ như vậy mỗi ngày ăn bảy tám cử mà vẫn đòi dọn cơm. Thằng cháu cố đang tuổi lớn ăn cũng không bằng được một bà già như vậy.
Ông dượng bảy vốn cũng giống ông ngoại tôi hay đi ghe xa nhà. Thỉnh thoảng mới ghé về dăm ba hôm rồi lại đi tiếp. Tuy vợ chồng xa cách nhiều nhưng bà cô bảy không dám than van. Thời buổi chiến tranh gian nan, kiếm được tiền đã khó, sao có thể phàn nàn khi chồng mình ăn nên làm ra cho được. Tuy nhiên do đột nhiên bà nội đâm ra ăn nhiều như vậy, bà cô bảy cũng hơi túng quẫn trong chi tiêu. Ông dượng bảy thấy trong nhà gạo đột nhiên thiếu hụt, lên tiếng trách mắng vợ, đến lúc này bà cô bảy mới dám đề cập tới chuyện bà nội.
Nào ngờ ông dượng bảy không tin, còn mắng vợ một trận, lo sợ bà cô bảy ở nhà sinh hư hỏng cờ bạc, lại còn nói xấu bà nội chồng để che dấu tội lỗi của mình. Bà cô bảy ấm ức lắm nhưng không dám cãi, mỗi ngày dè xẻn chi tiêu hơn, ăn bớt chén cơm, đi bắt nhiều hơn rổ cá cho bà nội ăn suốt ngày.
Mọi chuyện cứ tiếp diễn cho đến lần sau ông dượng bảy đi ghe về. Lần này hàng trúng đậm, ông dượng bảy mang nhiều tiền về cho vợ, còn kêu bà cô bảy mần hai con gà ăn mừng. Trong bữa cơm hai vợ chồng họ cùng đứa con ăn không hết một con gà, sáu con mắt trân trối nhìn bà nội chồng ăn hết cả con gà, lại còn nuốt hết cả xương không không nhả ra. Ông dượng bảy sợ bà nội ăn nhiều mắc xương nên cản lại, nào ngờ bà lão hung hăng cắn ông dượng bảy một một cái chảy máu đầm đìa, giật lấy con gà ôm chạy vào phòng.
Lúc này ông dượng bảy mới tá hoá nhận ra vợ mình nói thật. Bà nội gần trăm tuổi không ngờ lại khoẻ mạnh, phàm ăn đến vậy. Ông không yên tâm nên tạm gác chuyến ghe sau, ở nhà quan sát một thời gian.
Thời đó buổi tối nhà nhà đều đi ngủ sớm, đồng không mông quạnh vốn đâu có gì để mà chơi, ngủ sớm vừa tiết kiệm dầu, sáng hôm sau lại có thể dậy sớm để ra đồng làm việc. Bà cô bảy vốn tính nhát gan, ở nhà với con trai cũng mỗi người một phòng, chốt cửa kín lại ngủ sớm. Có ông dượng bảy ở nhà thì gan dạ hơn. Nửa đêm ông nghe tiếng động lịch kịch thì liền trở mình thức giấc, châm đèn lên kiểm tra cả nhà xem có trộm đạo nguy hiểm gì không.
Ông dượng bảy phát hiện cửa bếp bị mở, trong phòng bà nội cũng không thấy người. Đêm khuya tối mù như vậy, bà nội già cả không biết đi đâu, ông bèn châm đèn đi tìm.
Gió khuya lạnh buốt thổi ào ào như muốn tốc bay mái nhà. Xung quanh đều tối om, chỉ nghe tiếng cỏ cây xào xạc và ếch nhái kêu vang vọng. Ông dượng bảy xách đèn đi tìm, trong lòng lo lắng không nguôi. Đột nhiên ông giật mình nhìn thấy hai đốm sáng loé giữa lùm cây bụi, ánh loé biến mất ngay, nhưng ông đã nhận ra bóng đen lù lù đó là bà nội mình. Ông dượng bảy thở phào nhẹ nhõm, đi xăm xăm về phía bụi kia.
– Nội ơi, nữa đêm bà đi đâu vậy, làm con lo lắng quá.
Nói nửa chừng, ông kinh ngạc nín bặt. Bà nội của ông đang ngồi nhai ngon lành nửa thân chuột nhom nhở, trong miệng chỉ toàn là máu với máu.
– Trời ơi, sao nội bắt chuột mà ăn.
Ông dượng bảy chạy tới giật miếng chuột ra khỏi miệng bà nội. Đang ngon lành thì bị cướp món ăn, bà giận dữ nhào qua tấn công dượng bảy. Ông nào ngờ một người gần đất xa trời đến như vậy lại có sức lực khoẻ mạnh, húc một cái ông ngã lăn ra đất, chiếc đèn măng xông trong tay rơi xuống, dầu đổ cháy thành một ngọn.
Bà nội vừa cắn vừa cào, trong cổ họng còn rít lên từng tiếng như dã thú. Ông nhìn cặp mắt hung ác phản phất trong ánh lửa mà kinh hoàng như gặp quỷ. Bà cứ như vậy cắn vào cẳng tay ông rồi ngậm chặt không buông ra. Ông dùng hết sức vùng vẫy, cảm nhận máu của mình càng lúc càng chảy ra ướt đẫm. Nhờ sức vóc khoẻ mạnh, cuối cùng ông cũng có thể trở ngược tình hình, chế ng御
© 2025, Tin Tâm Linh. ( Theo : www.tintamlinh.com )