Nghệ Thuật Đoán Quẻ Kiều
(xuangiao.com)-Bói Kiều Đầu Xuân-(Có sửa quẻ thứ 64 vì trùng với quẻ số 8, quẻ thứ 108 vì trùng với quẻ 11, quẻ thứ 162 vì trùng với quẻ 114 và 10 quẻ mới từ quẻ thứ201đến
thứ 210)
Nghệ Thuật Đoán Quẻ Kiều
Bói Kiều là tham khảo ý kiến cụ Nguyễn Du, ni sư Giác Duyên và đạo cô Tam Hợp về tình trạng hiện tại của mình và để biết tu tập tiếp xử cách nào cho có hạnh phúc và thành công trong năm tới. ‘Thác là thể phách, còn là tinh anh’, tuy hình hài cụ Tiên Điền không còn, nhưng tinh anh của thi hào vẫn còn mãi mãi trong ta, chung quanh ta và trong sức sống của dân tộc. Tại làng Mai, ai bói Kiều cũng tắm tắc khen là linh nghiệm.
Muốn tham vấn, phải tới trước bàn thờ Phật và tổ để lạy ba lạy thật cung kính, rồi ngồi xuống đặt tay vào thành chuông, thở ba lần rất chánh niệm rồi đưa tay vào chuông bốc lên một quẻ. Cụ Nguyễn Du cũng như ni sư Giác Duyên đều là tổ tiên tâm linh và nghệ thuật của tất cả chúng ta.
Quẻ ấy được trao cho vị có nhiệm vụ đoán quẻ. Vị này là một người có kiến thức về văn chương truyện Kiều, có khiếu tâm lý và nhận xét, và nhất là có kiến thức Phật pháp và kinh nghiệm tu tập. Trong lúc quẻ được một người ngâm lên, mọi người có mặt đều thực tập theo dõi hơi thở. Nên có tiếng đàn phụ họa giọng ngâm. Thời gian này là để vị đoán quẻ chiêm nghiệm.
Về cách đoán quẻ, thường thường ở làng Mai, các Thầy, các Sư Cô và các vị Cư Sĩ hay theo phương pháp sau đây:
1/ Trong hai câu lục bát, có thể một câu là nhân và một câu là quả. Quả có thể là đã phát sinh trong hiện tại hay là điều mong ước trong tương lai. Nhân là lời khuyên của cụ Nguyễn Du về cách hành xử và tu tập để chuyển hóa hay thực hiện. Ví dụ: trong như tiếng hạc bay qua là tâm an tĩnh của mình được xem là quả hiện tại. Nhân của quả ấy là dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng, nghĩa là đã biết thân cận với Tam Bảo và xa lìa những môi trường nguy hiểm. Cũng thế, như ở các quẻ 48 và 78, câu 8 là nhân, câu 6 là quả và ở các quẻ 93 và 100, câu 6 là nhân và câu 8 là quả. Có khi trong một câu 8, bốn chữ đầu là nhân, bốn chữ sau là quả, hay ngược lại.
2/ Nghĩa lý trong quẻ không cần đi theo nghĩa lý truyện Kiều. Ví dụ: Lòng còn gửi áng mây vàng không hẳn phải giải là đương sự còn tưởng nhớ quê hương mà có thể giải là lý tưởng tu học vẫn còn vững mạnh, bồ đề tâm vẫn còn nguyên vẹn, vì mây vàng ở đây có thể dược xem là lý tưởng cao siêu của đạo Bụt, của ánh đạo vàng: Song thu đã khép cánh ngoài không những có nghĩa là đóng cửa sổ lại mà còn có nghĩa là đừng nên để tâm tới những chuyện thế gian, phải tập trung tâm ý vào việc tu học. Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân, theo tinh thần của Quy Sơn Cảnh Sách, là phải nương tựa vào các vị thiện tri thức lớn.
3/ Hỏi xem đương sự đã muốn tham vấn cụ Nguyễn Du về vấn đề nào, để nương vào đó mà đoán quẻ.
4/ Có thể tham khảo ý kiến của một vài vị thiện trí thức có mặt xem các vị này có tuệ giác gì khác nữa hay không về quẻ đang được đoán.
5/ Quẻ đoán phải có tác dụng an ủi, khuyến khích và soi sáng cho người xin quẻ.
6/ Trong giờ bói Kiều, nên tập họp cả đại chúng. Mỗi người bói xong phải lạy tạ trước khi trở về chỗ ngồi. Mỗi lời đoán phải là một bài thuyết pháp ngắn cho tất cả đại chúng.
Kính chúc liệt vị những ngày xuân ấm áp, hạnh phúc và đầy đạo vị.
Tôi tên là………………………..
Xin tham vấn thi thánh, đạo cô, sư trưởng
và giáng tiên về vấn đề……………………… ”
© 2012, Tin Tâm Linh. ( Theo : www.tintamlinh.com )